Bình Ngô (0) Đại Cáo
Cái văn﹕ Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân, điếu phạt (1) chi sư mạc tiên khử bạo。 Duy, ngã Đại Việt chi quốc, thật vi văn hiến chi bang。 Sơn xuyên chi phong vực kí thù, nam bắc chi phong tục diệc dị。 Tự Triệu Đinh Lí Trần chi triệu tạo ngã quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương。 Tuy cường nhược thì hữu bất đồng nhi hào kiệt thế vị thường phạp。
代天行化皇上若曰。蓋聞﹕仁義之舉,要在安民,弔伐之師莫先去暴。惟,我大越之國 ,實為文獻之邦。山川之封域既殊,南北之風俗亦異。自趙丁李陳之肇造我國,與漢唐宋元而各帝一方。雖強弱時有不同而豪傑世未常乏 。
Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
Cố Lưu Cung (2) tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết (3) hiếu đại dĩ xúc vong。 Toa Đô (4) kí cầm ư Hàm Tử quan, Ô Mã (5) hựu ế ư Bạch Đằng hải。 Kê chư vãng cổ, quyết hữu minh trưng。
Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch-Đằng bắt sống Ô-Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng,
Khoảnh nhân Hồ (6) chánh chi phiền hà。 Chí sử nhân tâm chi oán bạn。Cuồng Minh tí khích, nhân dĩ độc ngã dân; Ác đảng hoài gian,cánh dĩ mại ngã quốc (7) 。Hân thương sanh ư ngược diễm, Hãm xích tử (8) ư họa khanh。 Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;Liên binh kết hấn nhẫm ác đãi nhị thập niên。 Bại nghĩa thương nhân, càn khôn cơ hồ dục tức;Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mĩ hữu kiết di。Khai kim tràng tắc mạo lam chướng nhi phủ san đào sa,Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải。 Nhiễu dân thiết huyền lộc (9) chi hãm tỉnh, Điễn vật chức thúy cầm chi võng la。 Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kì sanh,Quan quả điên liên (10) câu bất hoạch dĩ an kì sở。Tuấn sanh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt (11) chi vẫn nha; Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ (12) 。Châu lí chi chinh dao trọng khốn, lư diêm chi trữ dữu giai không。 Quyết đông hải chi thủy bất túc dĩ trạc kì ô,Khánh nam sơn chi trúc (13) bất túc dĩ thư kì ác。Thần dân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dong。
頃因胡政之煩苛。至使人心之怨叛。狂明伺隙,因以毒我民;惡黨懷奸,竟以賣我國。焮蒼生於虐焰,陷赤子於禍坑。欺天罔民,詭計蓋千萬狀;連兵結釁稔惡殆二十年。敗義傷仁 ,乾坤幾乎欲息;重科歛,山澤靡有孑遺。開金場則冒嵐瘴而斧山淘沙,採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。擾民設玄鹿之陷阱,殄物織翠禽之網羅。昆虫草木皆不得以遂其生,鰥寡顛連俱不獲以安其所。浚生靈之血以潤桀黠之吻牙 ;極土木之功以崇公私之廨宇。州里之征徭重困,閭閻之杼柚皆空。決東海之水不足以濯其污,罄南山之竹不足以書其惡。神民之所共憤 ,天地之所不容。
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán hận. Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khoé, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khóa liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu; nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay! quan quả điên liên! Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
Ðộc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho; ai bảo thần nhân nhịn được.
Dư phấn tích (14) Lam Sơn,tê thân hoang dã。 Niệm thế thù khởi khả cộng đái,thệ nghịch tặc nan dữ câu sanh。Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật。Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,tức cổ nghiệm kim, tế thôi cứu hưng vong chi lí。Đồ hồi chi chí ngụ mị bất vong。Đương nghĩa kì sơ khởi chi thì,chánh tặc thế phương trương chi nhật。
予奮跡藍山,棲身荒野。念世讎豈可共戴,誓逆賊難與俱生。痛心疾首者垂十餘年,嘗膽臥薪者蓋非一日。發憤忘食,每研覃韜略之書 ,即古驗今,細推究興亡之理。圖回之志寤寐不忘。當義旗初起時 ,正賊勢方張之日。
Ta đây:
Núi Lam-Sơn dấy nghĩa; chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù; thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Ðau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang thịnh,
Nại dĩ﹕ Nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh。 Bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp kì nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả kì trợ。 Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông; Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả (15) 。 Nhiên kì: Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch (16) 。 Phẫn hung đồ chi vị diệt, niệm quốc bộ chi tao truân。 Linh Sơn (17) chi thực tận kiêm tuần,Khôi huyện chi chúng vô nhất lữ。
Ta đây:
Núi Lam-Sơn dấy nghĩa; chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù; thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Ðau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang thịnh,
Nại dĩ﹕ Nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh。 Bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp kì nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả kì trợ。 Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông; Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả (15) 。 Nhiên kì: Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch (16) 。 Phẫn hung đồ chi vị diệt, niệm quốc bộ chi tao truân。 Linh Sơn (17) chi thực tận kiêm tuần,Khôi huyện chi chúng vô nhất lữ。
奈以﹕人才秋葉,俊傑晨星。奔走先後者既乏其人,謀謨帷幄者又寡其助。特以救民之念 ,每鬱鬱而欲東;故於待賢之車,常汲汲已虛左。然其得人之效茫若望洋,由己之誠甚於拯溺。憤兇徒之未滅,念國步之遭迍。靈山之食盡兼旬,瑰縣之眾無一旅。
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần; nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mù như kẻ vọng dương; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc; phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh sơn lương hết mấy tuần; Khi Khôi huyện quân không một lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ hàng quyết nhậm, cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan
。 yết can vi kì (18) , manh lệ (19) chi đồ tứ tập; đầu dao (20) hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm。 Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kì。
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần; nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mù như kẻ vọng dương; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc; phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh sơn lương hết mấy tuần; Khi Khôi huyện quân không một lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ hàng quyết nhậm, cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan
。 yết can vi kì (18) , manh lệ (19) chi đồ tứ tập; đầu dao (20) hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm。 Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kì。
蓋天欲困我以降厥任 ,故予益勵志以濟于難 。揭竿為旗,氓隸之徒四集; 投醪饗士,父子之 兵一心。以弱制彊,或 攻人之不備;以寡敵眾 常設伏以出奇。
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt phải trải qua bách chiết thiên ma, cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phấp phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, quân giặc nhiều ta ít mà được luôn.
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt phải trải qua bách chiết thiên ma, cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phấp phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, quân giặc nhiều ta ít mà được luôn.
Tốt năng: Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo。 Bồ Đằng (21) chi đình khu điện xiết (22),Trà Lân (23) chi trúc phá khôi phi。 Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn。Trần Trí San Thọ văn phong nhi sỉ phách,Lí An Phương Chánh (24) giả tức dĩ thâu sanh。Thừa thắng trường khu, Tây Kinh (25) kí vi ngã hữu; tuyển phong tiến thủ, Đông Đô (25) tận phục cựu cương。Ninh Kiều (26) chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lí; Tốt Động (27) chi thi tích dã, di xú thiên niên。 Trần Hiệp (28) tặc chi phúc tâm, kí kiêu kì thủ; Lí Lượng (28) tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi。 Vương Thông (28) lí loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh (28) cứu đấu nhi nộ giả ích nộ。 Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; Ngã mưu phạt nhi tâm công (29) , bất chiến tự khuất。 Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô (30) 。 Chấp nhất kỉ chi kiến dĩ giá họa ư tha nhân, tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ。 Toại lệnh Tuyên Đức (31) chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng (32) chi nọa tướng, dĩ du cứu phần。
卒能以大義而勝兇殘 ,以至仁而易彊暴。蒲藤之霆驅電掣,茶麟之竹破灰飛。士氣以之益增,軍聲以之大振。陳智山壽聞風而褫魄,李安方政假息以偷生。乘勝長驅,西京既為我有 ;選鋒進取,東都盡復舊疆。寧橋之血成川,流腥萬里;窣洞之屍積野,遺臭千年。陳洽賊之腹心,既梟其首;李亮賊之奸蠹,又暴厥屍 。王通理亂而焚者益焚 ,馬瑛救鬥而怒者益怒 。彼智窮而力盡,束手待亡;我謀伐而心攻,不戰自屈。謂彼必易心而改慮,豈意復作孽以速辜。執一己之見以嫁禍於他人,貪一時之功以貽笑於天下。遂令宣德之狡童,黷兵無厭;仍命晟昇之懦將,以油救焚。
Dọn hay:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy; miền Trà-Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần-Trí, Sơn-Thọ, mất vía chạy tan; Phương-Chính, Quý-An tìm đường trốn tránh. Ðánh Tây-Kinh phá tan thế giặc; lấy Ðông-Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-Kiều máu chảy thành sông, Bến Tụy-Động xác đầy ngoài nội. Trần-Hiệp đã thiệt mạng; Lý- Lương lại phơi thây. Vương-Thông hết cấp lo lường; Mã-Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc. Ðến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-Ðức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy.
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy; miền Trà-Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần-Trí, Sơn-Thọ, mất vía chạy tan; Phương-Chính, Quý-An tìm đường trốn tránh. Ðánh Tây-Kinh phá tan thế giặc; lấy Ðông-Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-Kiều máu chảy thành sông, Bến Tụy-Động xác đầy ngoài nội. Trần-Hiệp đã thiệt mạng; Lý- Lương lại phơi thây. Vương-Thông hết cấp lo lường; Mã-Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc. Ðến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-Ðức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy.
Đinh Mùi cửu nguyệt Liễu Thăng (32) toại dẫn binh do Khâu Ôn (33) nhi tiến,bổn niên thập nguyệt Mộc Thạnh (32) hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai。Dư tiền kí tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kì phong,dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kì thực。Bổn nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vi ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng (34) chi dã; Bổn nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vi ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên (35) chi san。Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh (36) trận hãm nhi táng khu,nhị thập bát nhật thượng thư Lí Khánh (37) kế cùng nhi vẫn thủ。 Ngã toại nghênh nhận nhi giải,bỉ tự đảo qua tương công。Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,kì dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt。
丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,本年十月木晟又分途自雲南而來 。予前既選兵塞險以摧其鋒,予後再調兵截路以斷其食。本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,二十八日尚書李慶計窮而刎首。我遂迎刃而解,彼自倒戈相攻 。繼而四面添兵以包圍 ,期以十月中旬而殄滅 。
Năm Ðinh-Mùi tháng chín, Liễu-Thăng từ Khâu-Ôn tiến sang. Lại năm
nay tháng mười, Mộc-Thạnh từ Vân-Nam kéo đến. Ta đã điều binh thủ hiểm,
để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương
đạo. Mười tám, Liễu-Thăng thua ở Chi-Lăng; hai mươi, Liễu-Thăng chết ở
Mã-Yên. Hai mươi lăm, Lương-Minh trận vong; hai mươi tám, Lý-Khánh tự
vẫn. Lưỡi đao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt
vây thành; hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Viên tuyển tì hưu (38) chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi thần。 Ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi san thạch quyết。 Nhất cổ nhi kình (39) khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán quân kinh。 Quyết hội nghĩ ư băng đê, chấn cương phong ư cảo diệp。 Đô đốc Thôi Tụ (40) tất hành nhi tống khoản,thượng thư Hoàng Phúc (41) diện phược dĩ tựu cầm。
Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn.
Ðánh một trận sạch không kình ngạc; đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô; tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi-Tụ phải quỳ mà xin lỗi; Hoàng-Phúc tự trói để ra hàng.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn.
Ðánh một trận sạch không kình ngạc; đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô; tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi-Tụ phải quỳ mà xin lỗi; Hoàng-Phúc tự trói để ra hàng.
Cương thi tắc Lạng Giang (42) Lạng Sơn chi đồ, chiến huyết xích Xương Giang Bình Than (43) chi thủy。Phong vân vi chi biến sắc,nhật nguyệt thảm dĩ vô quang。Kì Vân Nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê Hoa (44), tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá phủ; Kì Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng vi ngã quân sở bại ư cần trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân。 Lãnh Câu chi huyết xử phiêu, giang thủy vi chi ô yết; Đan Xá chi thi san tích, dã thảo vi chi ân hồng。 Lưỡng lộ cứu binh kí bất toàn chủng nhi câu bại,các thành cùng khấu diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng。
僵屍塞諒江諒山之途 ,戰血赤昌江平灘之水 。風雲為之變色,日月慘以無光。其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;其沐晟眾聞柳昇為我軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;丹舍之屍山積,野草為之殷紅。兩路救兵既不旋踵而俱敗,各城窮寇亦將解甲以出降。
Lạng-Giang, Lạng-Sơn, thây chất đầy đồng; Xương-Giang, Bình-Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi. Thảm đạm thay! Sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân-Nam nghẽn ở Lê-Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc-Thạnh tan chưng Cần-Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Ðan-Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi. Thảm đạm thay! Sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân-Nam nghẽn ở Lê-Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc-Thạnh tan chưng Cần-Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Ðan-Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Tặc thủ thành cầm, bỉ kí điệu ngạ
hổ khất liên chi vĩ;Thần vũ bất sát (45), dữ diệc thể thượng đế hiếu sanh chi tâm。Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kì, tiên cấp hạm ngũ bách dư tao, kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán; tổng binh Vương Thông, tham chánh Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh。
hổ khất liên chi vĩ;Thần vũ bất sát (45), dữ diệc thể thượng đế hiếu sanh chi tâm。Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kì, tiên cấp hạm ngũ bách dư tao, kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán; tổng binh Vương Thông, tham chánh Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh。
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội. Thể lòng trời bất
sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã-Kỳ, Phương-Chính, cấp cho năm trăm
chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực; Vương-Thông, Mã-Anh, phát
cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi.
Bỉ kí úy tử tham sanh, nhi tu hảo hữu thành; Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức。Phi duy mưu kế chi cực kì thâm viễn, Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn。Xã tắc dĩ chi điện an, san xuyên dĩ chi cải quan。Càn khôn kí phủ nhi phục thái,Nhật nguyệt kí hối nhi phục minh。Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ。Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu dĩ mặc tương âm hựu nhi trí nhiên dã!
彼既畏死貪生,而修好有誠;予以全軍為上 ,而欲民之得息。非惟謀計之極其深遠,蓋亦古今之所未見聞。 社稷 以之奠安,山川以之改 觀。乾坤既否而復泰, 日月既晦而復明。于以 開萬世太平之基,于以雪天地無窮之恥。是由天地祖宗之靈有以默相陰佑而致然也!
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú phục; ta muốn toàn-quân làm cốt,
cả nước nghỉ ngơi. Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa
có. Giang san từ đây mở mặt;
xã tắc từ đây vững bền. Nhật nguyệt hối mà lại minh; Kiền, Khôn, Bĩ mà lại Thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn; thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng giúp đỡ cho nước ta vậy.
xã tắc từ đây vững bền. Nhật nguyệt hối mà lại minh; Kiền, Khôn, Bĩ mà lại Thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn; thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng giúp đỡ cho nước ta vậy.
Ô hô! Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo。Bá cáo hà nhĩ,hàm sử văn tri。
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định. Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.
Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định. Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.